Năm sinh: 13/08/1910 tại Kiến An, Hải Phòng
Năm mất: 31/07/1994 tại Hà Nội
Phong cách nghệ thuật: Tranh sơn mài với sơn son, vỏ trứng, tranh lụa
Các tác phẩm chính: Em Thúy, Nữ dân quân vùng biển, Chân dung bác thợ lò, Thiếu nữ áo trắng, Gội đầu, Xuống đồng, Tát nước đồng chiêm, Bộ đội xây dựng cầu, Con đọc bầm nghe, Thiếu nữ áo vàng.
Ông sinh ra trong một gia đình trí thức nghèo, thân phụ là một công chức bưu điện, ông được gia đình cho ăn học tử tế. Thuở nhỏ, chịu ảnh hưởng từ thân mẫu, vốn là một nghệ nhân làm nghề thủ công nặn tò he và đèn giấy bằng nan tre, và người cậu chuyên nghề vẽ đèn giấy, ông sớm có biểu lộ năng khiếu và sự ham thích với ngành hội họa. Sự ham thích này được thân phụ ông tán thành.
Năm 1931, ông thi đậu vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, theo học khóa VI (1931-1936) cùng với Nguyễn Gia Trí, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Văn Tại, Nguyễn Thụy Nhân, Vũ Đức Nhuận.
Thời gian ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ông cùng các bạn học vừa học tập vừa sáng tác. Năm 1933, ông cùng với Lê Phổ, Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Trần Quang Trân, nghiên cứu về kỹ thuật sơn ta, để tìm cách pha chế để có thể vẽ được nhiều lớp sơn chồng lên nhau và mài, thể nghiệm thành công tranh sơn mài với sơn son, vỏ trứng. Năm 1934, tác phẩm đầu tay mang tên “Mẹ tôi” đã được tham dự triển lãm ở Paris. Năm 1935, tại triển lãm lần thứ nhất Hội Khuyến khích Kỹ thuật và Công nghệ (SADEAL), ông có bốn tác phẩm “Em gái tôi” (sơn dầu), “Cha con” (lụa), “Đi làm đồng” và “Cảnh bờ sông” (khắc gỗ màu) tham gia triển lãm và được tặng giải ngoại hạng và được cử vào Ban giám khảo.
Tốt nghiệp với tác phẩm “Lều chõng” rất được đánh giá cao, nhưng khi ra trường, ông từ chối sự bổ nhiệm của chính quyền thuộc địa để tiếp tục tập trung vào trải nghiệm và sáng tác thử sức trên nhiều chất liệu khác nhau.
Là người dân thuộc địa, ông ít nhiều cảm tình với những nhà cách mạng đấu tranh giành độc lập. Mối cảm tình này đã thúc đẩy ông tham gia hoạt động trong phong trào Văn hóa Cứu quốc của Việt Minh, vẽ tranh cổ động “Cứu nông dân”, “Trừ giặc đói”, “Phá xiềng”, “Bản đồ Việt Nam không thể chia cắt”.
Cách mạng tháng Tám thành công, Trần Văn Cẩn cùng nhiều họa sĩ khác đã hồ hởi dựng hàng chục tranh cổ động quanh hồ Hoàn Kiếm. Bức “Nước Việt Nam của người Việt Nam” của Trần Văn Cẩn đã được căng trên toà nhà Địa ốc ngân hàng (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
Năm 1946, triển lãm mỹ thuật toàn quốc lần đầu tiên dưới chế độ mới được mở tại Hà Nội. Bức “Xuống đồng” của Trần Văn Cẩn đã được trao giải nhất và được Hội Văn hóa Cứu quốc mua, cùng với bức “Bác Hồ làm việc ở Bắc bộ phủ” của Tô Ngọc Vân và “Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Nguyễn Đỗ Cung.
Tháng 7/1948: tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc, Trần Văn Cẩn được bầu vào Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam.
Tháng 6/1954: Trần Văn Cẩn thay thế Tô Ngọc Vân (đã mất trong thời gian này) đảm nhiệm Hiệu trưởng trường Mỹ thuật và giữ cương vị này trong 15 năm (1954 -1969).
Với những đóng góp to lớn, Trần Văn Cẩn đã được trao nhiều huân chương cao quý, trong đó có Huân chương Lao động hạng nhất. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).
Khác hẳn phần đông nghệ sĩ khác, ông nghiêm túc với nghệ thuật, với đời sống, khiến người ta chỉ có thể khâm phục ngưỡng mộ. Ông là một người thầy mô phạm đúng nghĩa. Danh họa Trần Văn Cẩn đã dành cả cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ thuật. Ông là một trong những cây đại thụ của làng Mỹ thuật Việt Nam, một tấm gương sáng chói về lao động nghệ thuật cho các thế hệ mai sau.
Một số tác phẩm của họa sĩ Trần Văn Cẩn
Một số hình ảnh của Họa sĩ Trần Văn Cẩn
TỔNG HỢP/VIET MY/DESIGNS.VN