
Năm sinh: 11/12/1918 tại Hà Nội
Năm mất: 13/03/2000 tại Hà Nội
Phong cách nghệ thuật: Tranh in đá, khắc gỗ, sơn mài, tranh lụa, sơn khắc
Các tác phẩm chính: Vua Quang Trung giải phóng Thăng Long, Bác Hồ, Góc phố Hàng Mắm, Ô Quan Chưởng, Bến đò Cảnh Dương, Du kích đặt mìn, Tình quân dân, Mẹ Mão Lệ Sơn, Lão dân quân
Họa sĩ Phạm Văn Đôn là sinh viên khóa 13 của trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, tốt nghiệp năm 1944. Năm 1945 ông công tác tại Hội Văn hoá Cứu quốc. Phạm Văn Đôn từng phụ trách đoàn Kịch Tuyên truyền Giải phóng của Tổng đoàn Thanh niên Việt Nam (1946 – 1948). Năm 1948 ông nghỉ việc tại đoàn kịch tuyên truyền giải phóng và về làm Trưởng đoàn kịch “Chiến sĩ” thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu IV đến năm 1951. Cách mạng Tháng Tám thành công, họa sĩ Phạm Văn Đôn cùng vợ là nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim là thành viên của Hội Văn hoá cứu quốc trong Ban biên tập Tạp chí Tiền Phong – cơ quan ngôn luận của Hội Văn hoá cứu quốc. Ông từng là chủ nhiệm khoa tại chức Trường Đại học Mĩ thuật Việt Nam và là Cán bộ Quốc doanh Chiếu bóng và Nhiếp ảnh trung ương. Ông được kết nạp vào Hội Mĩ Thuật Việt Nam từ năm 1957.
Họa sĩ Phạm Văn Đôn là người xông xáo tham gia các hoạt động Cách mạng, ông là người không ngừng cống hiến cho nền Mỹ thuật Việt Nam, các tác phẩm của ông được biết đến với nhiều chất liệu thể hiện khác nhau như tranh khắc gỗ, tranh in đá, sơn mài, sơn khắc và lụa. Người xem gặp trong tác phẩm của ông những đường nét, sắc màu mạnh mẽ, những gam màu tươi sáng, va đập có một sự cuốn hút biểu cảm làm lay động lòng người, tranh của ông mộc mạc mang đậm chất tranh dân gian và có hiệu quả nghệ thuật cao. Để ghi nhận những cống hiến và đóng góp không ngừng nghỉ của ông. Năm 2001 họa sĩ Phạm Văn Đôn được Nhà nước truy tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I với các tác phẩm: Tình quân dân, lão dân quân, Bộ tranh in đá về du kích Cảnh Dương, Bến đò Cảnh Dương, Du kích đặt mìn…
Năm 2001 hoạ sĩ Phạm Văn Đôn đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I cho các tác phẩm: Bộ tranh in đá về du kích Cảnh Dương: Bến đò Cảnh Dương, Du kích đặt mìn, Tình quân dân, Mẹ Mão Lệ Sơn, Lão dân quân (1950); Vua Quang Trung giải phóng Thăng Long – Khắc gỗ màu – 55x49cm (1979); Ô Quan Chưởng- Sơn mài – 60x90cm (1989). Ngoài ra, ông còn có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp đào tạo các thế hệ hoạ sĩ Việt Nam.
Họa sĩ Phạm Văn Đôn qua đời ngày 13 tháng 03 năm 2000, tại Hà Nội.
Thành tích:
Huân chương Lao động hạng Nhất
Huân chương kháng chiến chống Mĩ cứu nước hạng Nhất
Huân chương Kháng chiến hạng Ba
Huân chương Chiến thắng hạng Ba
Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam
Huy chương Vì sự nghiệp Mĩ thuật Việt Nam
Huy chương Chiến sĩ Văn hoá
Giải thưởng Triển lãm Duy nhất năm 1944
Giải thưởng Triển lãm Mĩ thuật tháng Tám 1946
Giải thưởng Triển lãm Hội hoạ 1951 tại Việt Bắc
Giải thưởng chính thức Triển lãm Đồ hoạ Quốc tế Intergrafik năm 1980 tại Berlin – Đức)
Giải A Triển lãm 10 năm Đồ hoạ Toàn quốc năm 1985
Giải Nhì tại cuộc thi minh hoạ sách thiếu nhi ở Thuỵ Điển năm 1985
Giải thưởng Triển lãm Mĩ thuật Thủ Đô năm 1986
Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội năm 1992
Giải thưởng mĩ thuật hoạ sĩ cao tuổi Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1996.
Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 2001.
Một số tác phẩm của Họa sĩ Phạm Văn Đôn
.jpg)



Một số hình ảnh của Họa sĩ Phạm Văn Đôn
 Họa sỹ Đỗ Mạnh Cương_resize(1).jpg)
TỔNG HỢP/VIET MY/DESIGNS.VN