Cánh tay của một rô bốt thử nghiệm sản xuất tại một nhà máy đang nâng lên và hạ xuống, liên tục làm rơi hai chiếc đồng hồ đeo tay G-Shock nhiều lần xuống một tấm bê tông.
Cỗ máy này do các kỹ sư của Casio nghĩ ra vì trước đây công ty không có thiết bị tại trung tâm nghiên cứu và phát triển Hamura, phía tây bắc trung tâm Tokyo, để thử nghiệm một chiếc đồng hồ như G-Shock.
Một kỹ sư sau khi thử nghiệm đã kết luận rằng những chiếc đồng hồ vẫn ở trạng thái tốt mặc dù bị rơi vài giây một lần trong suốt một tuần. Trong khi G-Shock nổi tiếng về độ bền của nó, điều ấn tượng không kém là vào tháng 4 G-Shock kỉ niệm 37 năm sản phẩm lên thị trường mà không hề lỗi mốt.
G-Shock là một trong những sản phẩm nổi tiếng nhất trong số các sản phẩm của Casio, mặc dù công ty đã khởi đầu từ những năm sau chiến tranh bằng cách mạng hóa máy tính, trước khi phân nhánh thành đồng hồ, máy ảnh kỹ thuật số, nhạc cụ và một loạt thiết bị điện tử khác.
Casio được thành lập bởi Tadao Kashio, người sinh ra ở quận Kochi, miền nam Nhật Bản vào năm 1917. Gia đình ông chuyển đến Tokyo khi ông mới 5 tuổi, và Kashio bắt đầu làm công việc vận hành máy tiện sau khi học xong trung học.
Chủ nhà máy đã nhận ra điều gì đó đặc biệt ở người lao động trẻ và khuyến khích anh ta theo học tại Waseda Koshu Gakko, tiền thân của Đại học Waseda, xen giữa các ca làm việc.
Sau khi thành thạo các kỹ năng cần thiết để làm đồ gia dụng, đèn xe đạp và một vài đồ lặt vặt khác, Kashio vào năm 1946 thành lập doanh nghiệp của riêng mình, Kashio Seisakujo, tại Thành phố Mitaka của Tokyo.
Là nhà thầu phụ cho các nhà khai thác lớn hơn, công ty Kashio chịu trách nhiệm sản xuất bánh răng và linh kiện và thiết bị kỹ thuật khác, sau đó thuê ba người em trai của mình là Toshio, Kazuo và Yukio vào làm việc với mình.
Toshio nuôi dưỡng tham vọng trở thành một nhà phát minh và cũng là một người thần tượng Thomas Edison. Và mặc dù anh ấy có kiến thức sâu rộng về các bộ phận và hệ thống điện, nhưng đó là một phát minh đầu tiên là một thứ đơn giản thu hút được sự chú ý của công chúng
Trong những năm ngay sau thất bại của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai, hàng hóa cơ bản bị thiếu hụt và những người công nhân phải làm việc với năng suất lớn làm gia tăng tỉ lệ người sử dụng thuốc lá. Toshio đã tạo ra “tẩu yubiwa”, một chiếc nhẫn đeo ngón tay và ống đựng thuốc lá cho phép người đeo hút được phần sát đầu lọc và đồng thời để tay không làm việc.
Shigeru Kashio, bố của những chàng trai thực hiện phần việc tiếp thị sản phẩm và thấy được các đơn đặt hàng nhanh chóng đổ về. Sự sáng tạo đơn giản nhưng khéo léo này đã kiếm đủ vốn để công ty phát triển sản phẩm mà ban đầunó vốn được tạo ra.
Vào cuối những năm 1940, hầu như tất cả các máy tính ở Nhật Bản đều sử dụng bánh răng cơ khí và một tay quay với hạn chế là động cơ của thiết bị quá ồn và tương đối chậm. Với kiến thức về mạch điện của mình, Toshio đã tìm ra cách giải quyết nhiều vấn đề bằng cách chỉ sử dụng các mạch điện thay vì các bộ phận cơ khí.
Chiếc máy tính điện đầu tiên được sản xuất trong nước được hoàn thành vào năm 1954. Hai anh em tự hào trình diễn nó với Bunshodo, một nhà kinh doanh chuyên cung cấp đồ dùng văn phòng, nhưng ông cho rằng nó đã lỗi thời vì không thể thực hiện phép nhân liên tục.
Sau hai năm, khi vấn đề cũ đã được giải quyết, rào cản tiếp theo là việc sản xuất hàng loạt thiết bị lớn đến mức một chiếc máy tính có thể chiếm cả một căn phòng và một hệ thống lọc làm mát. Anh em nhà Kashio đã tạo ra một cuộc cách mạng trong việc thiết kế mạch điện, giảm số lượng rơ le từ hàng nghìn xuống còn vài trăm.
Phiên bản cuối cùng của máy tính có bàn phím được đặt thành máy để bàn, với toàn bộ thiết bị nặng 140kg (309lb) và có giá 485.000 yên – 4.643 đô la Mỹ theo giá hiện nay – và việc sản xuất hàng loạt Casio 14-A bắt đầu vào năm 1957, cùng năm đó mà hai anh em quyết định lấy tên là Casio Computer.
Mỗi người trong số bốn người trong gia đình đều được ghi nhận là người đã mang đến một chuyên môn và thế mạnh riêng cho công ty; Tadao về tài chính, Toshio về phát triển, Kazuo về bán hàng và Yukio về sản xuất.
Để đáp ứng nhu cầu tăng cao, nhà máy Casio đầu tiên được xây dựng ở phía tây Tokyo và đến năm 1965, Casio đã có 50 cửa hàng bán hàng trên khắp Nhật Bản và đã áp dụng áp dụng thêm máy tính điện tử sử dụng ống chân không. Công nghệ này cho phép hai anh em thu nhỏ thiết bị của họ một cách đáng kể và đưa ra khái niệm về chức năng bộ nhớ, điều mà các công ty khác chưa nghĩ ra.
Được thúc đẩy bởi thành công trong nước, Casio bắt đầu xuất khẩu máy tính vào tháng 9 năm 1966 và thành lập trụ sở châu Âu tại Thụy Sĩ. Một văn phòng của Hoa Kỳ được mở vào năm 1970, tiếp theo là một cơ sở của Đức vào năm 1972.
Trong những năm 1970, công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tokyo, mở các nhà máy sản xuất mới ở Nhật Bản, và mở rộng sang Vương quốc Anh và các thị trường khác. Năm 1974, công ty phân nhánh sang lĩnh vực đồng hồ với Casiotron, chiếc đồng hồ kỹ thuật số đầu tiên trên thế giới có lịch liền mạch.
Những năm 1980 là thời kỳ phát triển và đổi mới nhanh chóng hơn nữa, với việc công ty chuyển sang lĩnh vực nhạc cụ điện tử. Logo Casio ngày càng trở nên nổi bật trên bàn phím trong thời đại nổi tiếng với nhạc pop điện tử thử nghiệm. Casiotone được phát hành vào năm 1980 và những hậu duệ nâng cao của bàn phím đó vẫn được sản xuất cho đến ngày nay.
Sau đó, công ty đã tạo ra chiếc máy tính chạy bằng năng lượng mặt trời đầu tiên vào năm 1981, từ điển điện tử đầu tiên của họ cùng năm và vào năm 1983, cuốn nhật ký kỹ thuật số đầu tiên và TV-10, một chiếc TV LCD bỏ túi. Nhưng một thiết kế mang tính cách mạng khác cùng năm đã thay đổi mọi thứ công nghệ đồng hồ.
Kikuo Ibe, một kỹ sư của công ty, người đã nảy ra ý tưởng về đồng hồ G-Shock cho biết: “Khi tôi tốt nghiệp trung học, cha tôi đã mua cho tôi một chiếc đồng hồ. Tôi đã giữ nó suốt thời đại học và thậm chí sau khi tôi gia nhập Casio. Chiếc đồng hồ đó rất quan trọng đối với tôi, và hồi đó mọi người chỉ có một chiếc đồng hồ và họ đã chăm sóc chúng rất cẩn thận”.
Một ngày nọ, Ibe làm rơi nó xuống sàn bê tông và nó vỡ tan thành những mảnh nhỏ. Đó là thời điểm anh ấy nhận ra mình muốn làm một chiếc đồng hồ không thể phá vỡ.
Tuy nhiên, vào những năm 1980, thời trang dành cho những chiếc đồng hồ nhẹ hơn và mỏng hơn, trong khi chiếc đồng hồ mà Ibe đề xuất cần phải lớn và chắc chắn. Ngay cả sau khi được chấp thuận để bắt đầu quá trình nghiên cứu và phát triển, ông đã phải đối mặt với những trở ngại lớn.
“Vấn đề là khi bạn thiết kế một chiếc đồng hồ, có nhiều bộ phận khác nhau có thể bị vỡ như cuộn dây, màn hình, khung bezel hoặc thứ gì khác,” anh nói. “Chúng tôi đã không thể có được tất cả các thành phần đủ mạnh để chịu được mức độ chấn động mà chúng tôi muốn.”
Vẫn đang loay hoay tìm cách bảo vệ các bộ phận bên trong của đồng hồ, Ibe đang nghỉ ngơi trong một công viên thì anh liền nảy ra một ý tưởng. Anh ta thấy một đứa trẻ đang tung một quả bóng cao su trên sàn và chợt nhận ra rằng nếu “bộ não” của đồng hồ của nó có thể “lơ lửng” như ở bên trong quả bóng, chúng sẽ được bảo vệ khỏi những cú sốc đến từ mọi góc độ.
Ibe bắt đầu thử nghiệm các mẫu thử của mình bằng cách thả chúng ra khỏi cửa sổ tầng ba.
Ibe giải thích: “Ý tưởng quan trọng là các bộ phận quan trọng của đồng hồ sẽ nằm ‘lơ lửng’ bên trong vỏ, chỉ được kết nối ở bốn điểm, có nghĩa là bất cứ khi nào nó bị va đập, không có bộ phận nào của đồng hồ chịu tác động hoàn toàn.”
Khi công nghệ đã được hoàn thiện, rào cản tiếp theo cũng khó không kém đó là nhận thức của công chúng. Ibe thừa nhận: “Khi mới ra mắt tại Nhật Bản, G-Shock không được đón nhận nồng nhiệt. Một thời gian ngắn sau, nó cũng được phát hành tại Mỹ, và để bán được chiếc đồng hồ ở đó, chúng tôi phải chứng minh độ khó của nó”.
Một quảng cáo trên truyền hình Hoa Kỳ cho thấy các cầu thủ khúc côn cầu trên băng ném chiếc G-Shock xung quanh đã gây ra một cơn bão cáo buộc từ người xem rằng nó là giả. Một chương trình truyền hình đã tái hiện lại bài kiểm tra khúc côn cầu và cho xe tải chạy qua nhưng G-shock đã thành công vượt qua. Phản ứng ngay lập tức, đồng hồ G-Shock trở nên nổi tiếng ở Hoa Kỳ đối với những người đam mê hoạt động ngoài trời và những người có công việc đòi hỏi nhiều khó khăn điều họ đã thất bại ở quê nhà.
Mãi cho đến năm 1990, khi G-Shock đã có một bước nhảy vọt tại Mỹ để trở thành mốt trong giới trượt ván, giới trẻ Nhật Bản mới chú ý đến nó. Và khi họ bắt chước phong cách thời trang của Mỹ, G-Shock đã xuất hiện.
Trong hai thập kỷ qua, công ty đã chứng kiến nhiều đột phá hơn về công nghệ, bao gồm điện thoại di động chống va đập và nước, máy tính thu nhỏ và thiết bị xác minh dấu vân tay.
Tuy nhiên, một trong những bản phát hành gần đây nhất của nó là đồng hồ G-Shock MTG-B2000, ra mắt vào hồi tháng 9. Cải tiến mới nhất này được làm bằng kim loại và nhựa, để giữ trọng lượng ở mức tối thiểu nhưng vẫn cung cấp sự bảo vệ mà Kikuo Ibe đã nhấn mạnh cho các thiết kế của mình.